Thử viết Việt Nam văn học sử X
Tiếp theo của phần IX
Thời kỳ từ khi theo học chữ Hán đến trước khi có thơ phú nôm
(Từ thế kỷ II tr.J.C. đến đầu thế kỷ XIII)
Chương thứ hai
Văn-học hồi Bắc thuộc (1)
(Từ năm 207 trước đến 938 sau J.D)
Tổng luận
Cái mầm văn-học việt-nam nảy-nở rất sớm. Lối văn vần tổ truyền, như tục-ngữ, ca-dao kia, tức là một thứ sản-phẩm cố-hữu của ta đó.
Trước khi ta học theo Tàu, lối văn đó đã thành-lập rồi.
“Lục bát” là chính thể; “Lục bát gián thất” (hoặc song thất lục bát) là biến thể. Chúng thật là thứ văn đặc-biệt của dân-tộc Việt-nam. Chính chúng đã đẻ ra biết bao con cái tinh-thần sau này, như Kiều, Trinh-phụ ngâm, Tần-cung oán...
Sau khi bị Tàu chinh-phục bằng quân-sự và chính-trị, người Nam lại thâu-thái được món Hán-văn, rồi dần dần từ đời này qua đời khác, chiếm thành cái của sở-hữu của mình.
Trong khi Hán-văn nhờ thế-lực chính-trị và tôn-giáo mạnh-mẽ tràn vào, lối văn tổ-truyền vẫn ngầm-ngầm phát-đạt ở dân-gian, rồi theo thời-gian càng ngày càng tốt-đẹp, rực-rỡ.
Sống chung trong một giải đất, Việt-văn và Hán-văn cả hai cùng yêu nhau: hòa-hiệp mà không chia rẽ, hợp-tác mà không kỳ-thị, ghét-ghen. Rút cuộc Hán-văn, vì bén tiếng, quen hơi, thành ra an-nam-hóa; Việt-văn, vì lợi-dụng nổi người, trở được giàu chữ, giàu tiếng và giàu tư-tưởng.
Về sau, cả hai cùng phát-đạt: một đằng là lối văn bác-học, một đằng là lối văn bình-dân.
Ở hồi Bắc-thuộc, vì bấy giờ người mình còn nhắm cả vào một mục-đích, một hy-vọng: vận-động về mặt chính-trị đề thoát khỏi cương ách người Tàu, nên văn-học, có thể nói, chưa có gì cả.
Trong khoảng những đời Ngô, Đinh, Lê, Lý (939-1224), đài tự-do mới xây lại, người mình còn mải lo giữ cho nền móng ngày được vững-bền, nên văn-học chỉ được hơi nảy-nở.
Mãi đến đời Trần, (1225-1400), cơ-sở độc-lập đã vững, chính là giờ tốt cho văn-học bồng-bột mở-mang, cho nên, ngoài Hán-văn ra, ta lại gây thêm được lối “văn vần lai Tàu”, tức lối thơ phú nôm nữa.
Giờ ta hãy nhìn vào văn-học hồi Bắc-thuộc.
Từ đời Bắc-thuộc đến trước đời độc-lập (tức trước đời Ngô, Đinh…) Hán-văn do ba đường này nhập cảng vào Việt-nam:
1) Do quan-lại Tàu như Triệu-Đà, Nhậm-Diên, Tích-Quang, Sĩ-Nhiếp, v. v. truyền-bá Hán-học cho dân Nam để tiện bề giao-thiệp trong việc cai-trị và để gây cảm-tình với phái bị-trị.
2) Ra từ những người Nam như Lý-Cầm, Lý-Tiến, Trương-Trọng v.v., Hán-học có ảnh-hưởng đến dân Nam.
3) Đi kèm với gậy, bát của các vị cao tăng, Hán-học theo đạo Phật sang nhập tịch ở xứ này.
Nhắm ba đường đó, ta sẽ chia ra từng tiết mà nghiên cứu ở sau.
Tiết một
Hán-học truyền-bả bởi các lương-lại Trung-hoa. Về việc truyền-bá Hán-học sang nước Nam, ta phải công nhận các lương-lại Tàu là kẻ gieo giống.
Ban đầu, Triệu Võ-vương (207137 trước J. C) là người đi đầu khai hoang. Từ Tần (246-207 tr. J. C) đến đời Hán Văn-đế (179-155 tr. J. C.), Triệu Đà đã sống bằng cơm trời, nước giếng An-nam hàng 49 năm (coi bức thư của Triệu Đà gửi cho vua Hán). Trong vòng thời-gian khá lâu đó, Đà, một tay giỏi hơn Tiêu-Hà và Tào-Tham bên Hán, tất đã thông-thạo tiếng Nam lắm rồi. Kịp khi nhảy lên ngai vua, ngồi yên-ổn hàng 70 năm, há lại không đem cái đã học, đã biết mà truyền dạy dân Nam một cách trực-tiếp ?
Năm 196 trước J. C., Triệu-Đà có viết một bức thư xin lỗi vua Hán, trông có những câu: “..Trong đối với Hán, tôi không được chấn-động, ngoài sánh với Ngô, lại không có gì cao hơn, khác hơn , nên tôi phải đổi hiệu xưng là hoàng-đế. Song tôi chỉ xứng để ở trong nước, chứ có dám làm hại thiên-hạ đâu ?” (2) Lời văn thông-hoạt, mạnh-mẽ, lý-sự kín-đáo và khôn-ngoan, tỏ ra Triệu Đà là người có học-vấn lắm.
Vả, trong thư đó, Đà có dẫn tên ba người: Phan, nội-sử; Cao, trung-úy; Bình, ngự-sử. Trừ hai chức trung-úy và ngự-sử, ta nên chú ý vào chức nội-sử: một viên quan chuyên ghi-chép hoặc những việc quan trọng xảy ra hằng năm trong một nước quân-chủ, hoặc những hành vi động-tác của từng ông vua, hoặc những việc có dính-líu đến hoàng-phái, hoàng-gia của từng trào-đại. Viên đó lại có bổn-phận phải giữ các bạ-thư, luật, lịch, từ-tịnh, điền-lệ, công-văn, v.v… Tức là một chức sử-quan đấy.
Như vậy, ta có thể nói: Triệu Đà là người có học, quan-lại đời đó cũng đã làm việc về văn thư, thì trong khi cai-trị nước Nam, lẽ nào Hán-học không được truyền-bá cách trực-tiếp ?
Kế sau đó, còn có nhiều người dưới đây đáng liệt vào bảng danh-sách truyền dạy Hán-học:
Hán Hiếu-Võ (140-87 tr.J. C ), sau khi đã giết Lã-Gia (nhà Triệu) và đặt thứ-sử ở Giao-chỉ, có dời tội-nhân (chắc là hàng chính-trị phạm) Trung-quốc sang ở lẫn lộn với dân Nam, khiến cho dân Nam được học chút ít sách-vở và thông-hiểu sơ sơ về lễ-nghĩa, văn-hóa. (Coi bức thư của Tiết-Tông, thái-thú Hợp-phố, gửi cho chúa Ngô. Thư này có dẫn trong “Đại Việt sử-ký toàn thư, ngoại kỷ” quyển 4, tờ 2).
Tích-Quang, người Hán-trung, làm thái-thú Giao-chỉ (hồi đầu Tây-lịch), có dạy dân theo lễ-nghĩa.
Nhiều nhà thân-sĩ đời Hán, vì tránh loạn Vượng-Mãng (8-25), chạy sang Nam, nương nhờ Tích-Quang, chắc có giúp Tích trong việc truyền bá văn-minh Tàu. (Coi sách “Etudes d’Histoire d’Annam” của Maspero)
Nhậm-Diên, người Diên-uyển, làm thái-thú Cửu-chân (hồi đầu Tây-lịch), dạy dân khai-khẩn, cày bừa, trồng-trọt và giúp lễ cưới cho dân nghèo. Về việc Tích-Quang và Nhậm-Diên, sử Hán chép gồm rằng: “Văn-phong Lĩnh-nam bắt đầu có từ hai Thái-thú này”. Mà Tiết-Tông đời Ngô cũng nói: “ Tích-Quang Nhậm-Diên xây trường học, dạy lễ-nghĩa” .
Sĩ-Nhiếp (187-226), tự Ngạn-uy, người Thương-ngô, có đậu hiếu-liêm và mậu-tài, Ông nghiên-cứu Thư, Truyện, Xuân-thu và Tả-truyện. Khi làm thái-thú ở Giao-chun, ông giữ yên bờ-cõi trong khi bên Tàu đương có cuộc
Tam quốc giao-tranh. Đối với sĩ-phu, ông có lòng khiêm-nhúp, nhã-nhặn. Có điều này ta nên chú ý: Vì lánh nạn, bấy giờ có đến hàng trăm danh-sĩ nhà Hán trốn sang Nam, nương nhờ Sĩ-Nhiếp. Chắc họ cũng có ảnh-hưởng trên dân-chúng bấy giờ về mặt Hán-học (3). Để ca-tụng cách quá đáng về Sĩ-Nhiếp, Ngô-sĩ-Liên, sứ-thần đời Lê, có chép: “ Nước ta thông Thi, Thư, tập lễ nhạc, trở nên một nước văn-hiến là bắt đầu từ đời Sĩ-vương”.
Ta cũng không nên quên tên Tuệ-Độ, người đã góp công trong
việc truyền bá Hán-văn: Hồi thuộc Tấn (280 – 419), Tuệ-Độ làm thứ sử, mặc áo vải, ăn cơm rau, dựng trường học, có tiếng tốt trên trường chính-trị hồi đó.
Đó, những người lương-lại Trung-hoa nói trên đều có đóng vai quan-trọng trong việc nhập cảng Hán-học vào xử này.
Nói cho đúng, Triệu Đà là tên lính tiên-phong trong đội quân truyền-bá Hán học; còn những người đi sau như Tích, Nhậm, Sĩ-Nhiếp .. thì mở-mang và truyền rộng ra, chứ không phá? có công đầu như sử Hán và Ngô-sĩ-Liên dā nói.
Dầu vậy, trong việc này, ta còn phải chia công, xẻ tiếng cho hai hạng người nữa, tức những người Nam đã học thành-tài trong hồi Bắc-thuộc và các nhà Phật-học tuyên-truyền đạo Phật ở đây từ thế kỷ thứ III đến thế-kỷ thứ X. Vì việc truyền dạy Hán-học ở nước Nam là một công-cuộc trọng-đại và lâu năm, tất phải nhiều người góp sức, nhiều đời dồn-chứa, dần dà thấm-thía mới thành được cái công-quả lớn lao như vậy.
HÒA BẰNG
(Theo TRI TÂN TẠP CHÍ 1941)