Quang Trung và Ngọc Hân công chúa II
Tiếp theo của phần I
Ngày mồng mười tháng bảy, dẫn sính lễ, Nguyễn Huệ sai đem hai trăm lạng vàng, hai mươi cây vóc, lại trần thiết nghi trượng kỳ xí, phái văn thần đem dâng trước đến Vạn Thọ. Vua Lê sai hoàng tử Lê Duy Cẩn, – Sùng Nhượng Công – tiếp thư và lễ vật đem cáo Thái-miếu, lại gọi các hoàng thân, phi-chúa cùng các quan văn võ sắp sửa ngựa xe trước đến để đưa công chúa về phủ.
Mười một tháng bảy. Ngày hôm này là cái ngày mọi người mong mỏi, từ Nguyễn Huệ, Ngọc Hân đến hoàng tộc, thứ dân. Từ cửa đền đến cửa phủ, vệ binh đứng san sát hai bên đường, nghi-vệ rất trang nghiêm. Sau hai hàng vệ binh, người ta có thể nói, tất cả người đế đô đang chen chúc nhau chật như nêm cối. Nguyễn Huệ sai quan dang tờ tập tấu xin đón dâu về…
Chúng ta bây giờ sinh sau một thể kỷ rưỡi, lại thiếu tài liệu, không thể tưởng tượng được cái uy nghi của đám cưới; nhưng hẳn về tôn nghiêm Loa-lệ của nhà vua với cái giản dị khác khổ của nhà tướng đã được hòa hợp để đám cưới thành ra có một không hai trong sử nước nhà, để trăm họ được suýt soa trông thấy một đám rước toàn vàng, toàn bạc, toàn ngà, toàn nhiễu,toàn vóc, một đám rước đủ các màu sắc giữa hai hàng gươm giáo sáng lòa.
Khi rước xe công chúa vào đến cửa phủ cách vài trăm bước. Nguyễn Huệ ngồi kiệu thiếp vàng ra đón như lễ nhà thường. Công chúa vào phủ. Nguyễn Huệ mời các hoàng thân, phi-chúa cùng văn võ đại thần vào dự tiệc.
Đến đây, tôi tưởng không ai là không thấy tính tò mò của mình tai ác hơn lúc thường, như muốn thôi thúc chúng ta tìm tòi cho biết buổi tiệc ấy ra sao. Song nhà làm sử nước ta đến đây im bặt. Dằn lòng vậy ! Ta cứ nhủ; bữ tiệc cưới em một Hoàng đế chắc phải “ đế vương ” lắm.
Tiệc tan, Nguyễn Huệ lại sai đem hai trăm lạng bạo làm đồ tổng tặng đưa tiễn các quan ra đến ngoài cửa phủ mới trở vào.
Từ bốn hôm nay. Ngưu lang Chức nữ lại trở lại với đàn trâu, khung cửi, mắt còn chưa khô hàng châu đêm Thất-tịch, lòng còn bâng khuâng nỗi ly biệt trên sông Ngân. Nguyễn-Huệ tạm quên những quý anh nơi sa trường mà vui với trưởng gấm với người bạn mới. Có kẻ tin dị đoan lo ngại: Cuộc hôn nhân nhằm tháng Ngâu. Không biểu Nguyễn Huệ có thấy mưa Ngâu sùi sụt mà sợ không, chứ ở lòng công chúa Ngọc Hân thật vắng bặt nỗi âu lo:
“Rút giây nâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan, chèo quế thuận đường vu qui.
Trăm ngàn dặm quản chi con nước,
Chữ nghi gia mừng được phải duyên ”
(Ai tư vãn -Ngọc Hân công chúa)
Nhớ lại lúc Nguyễn Hữu Trỉnh dò ý Nguyễn Huệ về việc công chúa Ngọc Hân. Nguyễn Huệ cười mà rång:
– Xưa nay người cho phụ, tình vợ chồng lại càng thêm lắm, Hoàng thượng cũng soi biết ý thế rư?
Câu nói thật tự nơi tâm khảm mà ra, đã gồm một chân lý ngàn năm vẫn đúng lại tóm tắt cả cái quan niệm về tình ái của Nguyễn Huệ
Bơi đằm trong sông máu đỏ lòm, ngâm chân trên núi thây tanh thối, Nguyên Huệ vẫn còn dành một góc lòng ấm áp để thương yêu vợ con. Vì vậy, sự đối đãi với Ngọc Hân công chúa thật trung hậu, thật chí tình.
Ngay từ buổi đầu, sự hòa hợp đã làm yên lòng cô gái lầu son gác tía:
“Sang yêu muốn đội ơn trên.
Rõ ràng vẻ thúy nối chen tiếng cầm ”
(Ai tư vãn)
Sự hòa hợp để đem lại lượng khoan dung, Người tướng nghiêm khắc với ba quân, có khi chém người vì một cái cười, nhưng chém tên lại phiện lúc tế thành phục vua Hiến Tôn, mà mỗi lời là một lệnh người tướng ấy, trong gia đình, lại là người chồng dịu dàng sẵn lòng tha thứ những vụng lâm của một người vợ dịu dàng nhưng còn quá trẻ; người ấy dậy vờ từ chân tơ kẽ tóc khi vào Nam, khi ra Båc, việc binh việc nước bề bộn. nhất là khi đế nghiệp nhà Tây Sơn mới lờ mờ hiện trong một hỗn mang mù mịt, nhưng những khi nhàn rỗi cũng ra sân thưởng trăng, thưởng gió, cũng vui vầy sênh ca nơi gác phượng, cũng trước gương chung bỏng với người yêu.
Có lần, một vị thượng quan định dâng con gái cho một vị Hoàng đế, vị Hoàng đế nói: “Cung trẫm chỉ là một ngục lao !” Ý bảo cái kiếp vợ vua là khổ. Nhưng theo cái sống của công chúa Ngọc Hân khi sinh thời “vua và chồng”, cung vua con hơn là chốn ngọc đài. Công chúa cũng không phải là không biết, nên có lần thưa với Huệ “Chỉ một mình thiếp được sánh với Thượng-công, ví như hạt mưa trên trời, hạt nào được rơi vào chỗ đài các là sự may của thiếp !”.
Quả vậy. Thật là đại hạnh cho công chúa. Hạt mưa từ nơi trướng gấm lại sa vào nơi trướng gấm, lọt trúng giữa một chiếc bình pha lê trong suốt, để tránh được vũng bùn bẩn thỉu, lại còn xa cả mặt trời gay gắt. Nguyên Huệ tin yêu công chúa lắm, có khi chiều chuộng là khác. Lúc vua Hiến Tôn băng, công chúa nghĩ anh thân hơn cháu, muốn dành ngôi báu cho Sùng Nhượng Công; Nguyễn Huệ nghe theo và không ưa đích tôn, muốn hoãn lễ đăng quang lại. Sau ví quận Vượng không can thiệp, có lẽ lễ tấn tôn Lê Chiêu Thống không bao giờ cử.
Sau đấy, Nguyễn Huệ được vua Tàu sắc phong, khi làm lễ tuyên phong rồi, bèn lập bà Ngọc Hân làm Bắc cung hoàng hậu. Nước non có biến đổi; lòng người vẫn như xưa.
“ Dù tầng non nước biển dời
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu mà”
(Ai tư vãn)
Nhưng muốn đo lòng Nguyễn Huệ thương yêu công chúa Ngọc Hân, có lẽ không có cái thước nào tốt hơn chính sự đối đãi của Nguyễn Huệ với “ nhạc gia ”.
Thương hoa thì đoái cội. Vua Hiến – Tôn bệnh ngày một trầm trọng. Nguyễn Huệ muốn kịp khi vua còn đương sống ra ngồi chịu triều-hạ, để mừng sự nghiệp nhất thống. Tuy mang bệnh trong người, ngày rằm tháng bảy vua cũng ra ngự-tọa: hai tai già mơ hồ vọng nghe ba phát súng hiệu ở thành ngoài đột nổi giữa tiếng nhã nhạc du dương; hai mắt lim dim trông trăm quan theo ban triều hạ. Sống bảy mươi năm, trị vì bốn mươi năm, có lẽ nhà vua buổi hôm nay mời mừng được thấy uy nghi nước cũ, lại vui được về hiền lương đống. Vua hẳn tưởng mình đã từ địa ngục lên thiên đường. Nhưng thực ra, vua cũng gần thiên đường lắm, nên hôm sau băng hà.
Trước lúc buông xuôi hai tay ngài dặn đích tôn: “ Ta nhắm mắt rồi, các việc nhớn phải báo Thượng công cả, đừng có coi thường.”
Lời di chúc của phụ vương Nguyễn Huệ không phải là không
kính cẩn. Nguyên Huệ lập đích tôn làm Hoàng đế. Đoạn, muốn tính xong việc tang lễ để cho toàn đạo làm rề, mới kén ngày tống táng. Nguyễn Huệ sai làm đủ nghi tiết, lại phải ba trăm lính đi hộ tang, đưa đến bến sông, chờ khi linh cữu để yên trên thuyền xong, phát dẫn về Thanh Hóa, rồi mới về phủ.
Nói tóm lại, Nguyễn Huệ đã khôi phục trật tự trong một triều đình hỗn độn, đem uy nghi cũ trả lại một nước lúc tàn vong.
“Triều đình còn dấu chưng thường,
Tùng thư còn nấm mấy hàng xanh xanh”
(Ai tư vãn)
há không phải tự tấm hậu tình của Nguyễn Huệ ?
Mà đâu có riêng cho mộ vua Hiến-Tôn. Các con cái ngài cũng được tốt tươi lây:
“ Lòng đùm bọc, thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thần cũng đội ơn mang”,
(Ai tư vãn)
Đó là chưa kể cái nghĩa tôn-phù mà tôi sẽ nói tới một khi khác : người ta vẫn bàn cãi nhiều về chữ “ tôn-phù ” của Nguyễn Huệ, song chúng ta nghĩ sao đây khi một người con gái vua Hiến-Tôn cũng phải nhận:
“ Tự cờ đỏ trỏ vời cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương ”
(Ai tư vãn)
Được một người chồng biết thương yêu mình, biết quí trọng cha mẹ mình, biết nghĩ đến cội rễ mà che chở anh em, mà giữ gìn từ nghi lễ đền tùng thư, công chúa Ngọc Hân có viết:
“ Chữ nghi gia mừng được phải duyên”
(Ai tư vãn)
cũng chỉ là viết theo sự thực, có:
“ Những ao ước chập chùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngỡ được vui vầy ”
(Ai tư vãn)
cũng chỉ là ao ước tự nhiên.
Than ôi! ao ước đâu có phải trong phạm vi người trần !. Tạo vật đã đem cả tinh hoa trong trời đất đồ kết mối lương duyên, lại vội ghét ghen, đang tay đứt sợi tơ hồng khăng khít !
Mười sáu tuổi vui chữ vu qui; hai mươi hai ra người sương phụ. Văn tự loài người có lẽ cũng bất lực trong những trường hợp này, vì văn tài nào tả nổi nỗi thương tâm của công chúa ?. Có chăng chỉ sóng vỗ ngoài khơi, gió lùa trên núi, hay những buổi sùi sụt mưa như đêm Thất-tịch bay mù mịt như ngày đông, mới gợi nổi trong trí người tiếng thổn thức lâm ly cùng nét mặt ủ rũ của công chúa ? Nỗi đau khổ rộng quá !. Nỗi đau khổ sâu quá ! Quang Trung hoàng đế tịch đi, Bắc cung hoàng hậu đâu chỉ mất một người chồng, hậu còn thiệt cả tay kiều sở của non sông Lê cũ, hậu đâu chỉ cạn một nguồn tình chưa bao giờ vơi, hậu còn thiếu cả di mưu cho hai đứa con nhỏ dại. Cố nhiên mặt trời hạnh phúc ngả bóng từ đây, và cũng từ đây bắt đầu chuỗi ngày ảm đạm, Rồi đây, ròng rã tám năm trường, thay hình đổi dạng nay chỗ này, mai chỗ khác, hậu sống nốt một cuộc đời đã chết, sống vất vơ vất vưởng trong gian nguy, sống với kẻ khuất nhiều hơn với người còn, chỉ tâm niệm gây dựng cho hai con, một trai, một gái.
(Còn một kỳ nữa)
TAM GIA