Cần đánh giá các rủi ro của vaccine một cách toàn diện

So với một hoặc hai thế hệ trước, trẻ em được chích ngừa 6 hoặc 7 bệnh, thì trẻ em ngày nay được chích gần 70 mũi để phòng 18 loại bệnh.Tuy nhiên, cho đến nay, những nghiên cứu được thiết kế để đánh giá tác động lâu dài của lượng vaccine được đưa vào cơ thể hoặc các khía cạnh khác của việc chích ngừa đã không được tiến hành. Chính sự thiếu khoa học này đã khiến các bậc cha mẹ lo lắng về ảnh hưởng ngày càng tăng của các loại vaccine đối với con cái họ và hệ miễn dịch đang phát triển của chúng.

đánh giá các rủi ro của vaccine toàn diện
Thiếu những nghiên cứu khảo sát tác động lâu dài của vaccine khiến những bậc cha mẹ lo lắng (Ảnh: epixproductions/Shutterstock)

Sức khỏe là một vấn đề cá nhân sâu sắc. Thói quen, khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và tiền sử gia đình đều đóng một vai trò quan trọng. Và hiện tại, chúng ta có quyền lựa chọn có hay không chích ngừa COVID-19.

Tất cả các tiểu bang đều có danh sách hàng loạt bệnh cần chích ngừa cho trẻ em khi chúng nhập học vào các trường công lập. Mặc dù hầu hết các tiểu bang cho phép cha mẹ không thực hiện yêu cầu này vì lý do tôn giáo hoặc y tế, nhưng lựa chọn không tham gia lại không được khuyến khích.

Đối với một số chuyên gia y tế, chích ngừa là bước tiến quan trọng nhất trong sức khỏe cộng đồng — bên cạnh hệ thống nước máy trong nhà và kỹ thuật phẫu thuật hiện đại. Chích ngừa được quảng bá như một phương pháp phòng ngừa và bảo vệ người dân khỏi nhiều loại bệnh tật.

Tuy nhiên, bất chấp những lợi ích mà vaccine hứa hẹn, quy trình này vẫn còn nhiều tranh cãi.

Vấn đề cốt lõi là tính an toàn. Tờ thông tin đi kèm vaccine cảnh báo một danh sách dài các nguy cơ sức khỏe có thể xảy ra, bao gồm cả tử vong. Tuy nhiên, các cơ quan y tế nói rằng những trường hợp như vậy là hiếm và không đáng kể so với những lợi ích cộng đồng khổng lồ mà chương trình chích ngừa mang lại.

Trong cuộc phỏng vấn năm 2010 trên chương trình “Frontline” của PBS, Tiến sĩ Anthony Fauci, Giám đốc Viện Quốc gia về Dị ứng và Các bệnh Truyền nhiễm, một chuyên gia về đại dịch COVID-19, đã nói rằng nguy cơ của vaccine là “hầu như không có.

Ông Fauci nói, “Vaccine có hiệu quả cao và rất an toàn khi quý vị cân nhắc tỷ lệ rủi ro – lợi ích của một căn bệnh so với nguy cơ rất, rất rất nhỏ của bất kỳ tác dụng phụ nào mà quý vị gặp phải với vaccine. Nhưng động lực để quý vị đi chích ngừa rất rõ ràng và cụ thể khi quí vị nhìn xung quanh và thấy người ta đang bệnh nguy kịch.”

Tuy nhiên, việc xác định con số cần thiết cho một phân tích rủi ro-lợi ích thực sự không rõ ràng. Theo một nghiên cứu do Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ tài trợ, ít hơn 1% trường hợp gặp tác dụng phụ do vaccine được báo cáo. Hệ thống Báo cáo Sự kiện Có hại của vaccine (VAERS) được giao nhiệm vụ theo dõi các vấn đề liên quan đến vaccine ở Hoa Kỳ. Vào năm 2012, Viện Y học (IOM) nhận thấy VAERS là không đáng tin cậy.

IOM cũng chỉ ra rằng nghiên cứu xem xét việc chích ngừa và các biến cố bất lợi không cho thấy bằng chứng đầy đủ để chấp nhận hoặc bác bỏ mối quan hệ nhân quả này. Theo báo cáo của IOM, vấn đề là “nghiên cứu được thiết kế để kiểm tra tác động lâu dài của lượng vaccine tiêm vào hoặc các khía cạnh khác của việc chích ngừa đã không được tiến hành”.

Đây chính xác là những nghiên cứu cần thiết để đánh giá mức độ an toàn thực sự của việc chích ngừa hiện tại.

Chính sự thiếu khoa học này khiến các bậc cha mẹ lo lắng về tác động ngày càng tăng của các loại vaccine đối với con cái họ và hệ miễn dịch đang phát triển của chúng. So với một hoặc hai thế hệ trước, khi trẻ được chủng ngừa sáu hoặc bảy bệnh, thì trẻ em ngày nay được tiêm gần 70 mũi để phòng chống 18 loại bệnh.

Các nhà quản lý cố gắng dập tắt những lo ngại bằng cách đảm bảo với công chúng rằng vaccine được kiểm tra nghiêm ngặt. Nhưng chế độ quản lý đặc biệt đối với các sản phẩm này khiến người ta nghi ngờ. Không giống như hầu hết các nhà sản xuất khác, những nhà sản xuất vaccine được bảo vệ khỏi trách nhiệm pháp lý nếu sản phẩm của họ bị phát hiện là có hại. Nói cách khác, họ không thể bị kiện vì đã không thử nghiệm sản phẩm đủ để tìm ra các tác dụng phụ phổ biến. Sự bảo vệ này được cấp thông qua Đạo luật Quốc gia về Thương tích do vaccine ở trẻ em (NCVIA) năm 1986, đạo luật này hướng dẫn các bậc cha mẹ tìm kiếm việc bồi thường khi xét xử trường hợp của họ tại một tòa án liên quan đến vaccine.

Số lượng vaccine mà mỗi trẻ em nhận được đã tăng lên đáng kể kể từ khi NCVIA được thông qua. Nhưng chỉ có một tỷ lệ nhỏ các trường hợp được bồi thường khi đưa ra tòa án đặc biệt này. Vì nhà sản xuất không phải chịu trách nhiệm pháp lý nên các quy tắc của NCVIA khiến các cơ quan liên quan phải thanh toán bồi thường. Theo một phân tích, chính phủ Hoa Kỳ đã chi hơn 4 tỷ đô la tiền bồi thường thương tật liên quan đến vaccine trong 34 năm qua khi NCVIA được ban hành.

Nghiên cứu so sánh

Khi số mũi thuốc chích ngừa bắt buộc ngày càng, các bậc cha mẹ, bác sĩ và các nhóm vận động liên quan đã kêu gọi nghiên cứu so sánh trên những trẻ đã chích ngừa với trẻ chưa được chích. Vào năm 2013, IOM đã ủng hộ việc này khi ban hành một báo cáo hướng dẫn Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC) thực hiện nghiên cứu so sánh này bằng cách sử dụng thông tin bệnh nhân từ Liên kết dữ liệu an toàn vaccine.

cần đánh giá các rủi ro của vaccine
Một dược sĩ pha loãng vaccine COVID-19 của Pfizer trong khi chuẩn bị chích cho nhân viên và cư dân tại Goodwin House Bailey’s Crossroad, một cộng đồng sinh sống của người cao tuổi ở Falls Church, Virginia, hôm 30/12/2020. (Ảnh: Brendan Smialowski/ AFP qua Getty Images)

Nhưng trong bảy năm qua, CDC vẫn chưa xem xét dữ liệu này. Một yêu cầu về Đạo luật Tự do Thông tin được đệ trình vào tháng 6/2020 tiết lộ rằng CDC không có nghiên cứu so sánh nào thuộc sở hữu của mình, cũng như chưa tiến hành một nghiên cứu nào như vậy. Điều đó có nghĩa là CDC không có bất kỳ mẫu nghiên cứu cơ bản nào để xác nhận tính an toàn và hiệu quả lâu dài của phương pháp điều trị y tế được áp dụng một cách bắt buộc trên tất cả trẻ em này.

Gn đây, tạp chí SAGE Open Medicine đã công bố một nghiên cứu xem xét các chi tiết mà các cơ quan quản lý vaccine như CDC cho đến nay vẫn bỏ qua. Các nhà nghiên cứu đã xem xét dữ liệu về kết quả sức khỏe của cả trẻ em được chích ngừa và chưa được chích ngừa từ ba trung tâm nhi khoa lớn ở Hoa Kỳ. Đối tượng nghiên cứu được sinh ra từ tháng 11/2005 đến tháng 6/2015, và được so sánh trong năm đầu tiên của cuộc đời về tỷ lệ mắc hội chứng chậm phát triển, hen suyễn, viêm tai và rối loạn tiêu hóa.

Nghiên cứu kết luận rằng những đứa trẻ không được chích ngừa khỏe mạnh hơn những đứa trẻ được chích ngừa. Mối quan hệ chặt chẽ nhất được nghiên cứu đối với chích ngừa là bệnh hen suyễn (gấp 4,5 lần), chậm phát triển (gấp 2.0 lần) và viêm tai (gấp 2.0 lần). Không tìm thấy mối liên quan nào đối với rối loạn tiêu hóa trong phân tích sơ cấp, nhưng mối quan hệ có ý nghĩa được phát hiện khi sử dụng liều vaccine ngày càng tăng.

Tác giả chính của nghiên cứu, Tiến sĩ Brian Hooker, phát biểu trong một thông cáo báo chí, “Kết quả cho thấy những đứa trẻ không được chích vaccine trong năm đầu đời có sức khỏe tốt hơn.“ Những phát hiện như vậy bổ sung cho nghiên cứu quy mô lớn trên trẻ em đã được chích ngừa và chưa được chích ngừa nhằm mang lại sức khỏe tối ưu cũng như bảo vệ chống lại các bệnh truyền nhiễm.”

Robert F. Kennedy của Hội Bảo vệ Sức khỏe Trẻ em cho biết kết quả này khi thực hiện trên 65 nghiên cứu đã chích ngừa / chưa chích ngừa trên trang web của ông ấy. Đây không phải là nghiên cứu so sánh đầu tiên trong lĩnh vực này.

Ông Kennedy viết: “Tất cả đều cho thấy trẻ em chưa được chích ngừa có sức khỏe tốt hơn đáng kể. Chúng tôi không tìm thấy nghiên cứu nào cho thấy sức khỏe vượt trội ở trẻ em được chích ngừa.”

Các nghiên cứu đã chỉ ra một xu hướng đáng báo động, nhưng, theo thiết kế, chúng chỉ cho thấy mối tương quan chứ không phải nhân quả. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu từ báo cáo gần đây lưu ý những hạn chế về dữ liệu của họ. Ví dụ, mặc dù kích thước mẫu của họ đáng kể, nhưng dân số mà họ chọn có thể không phản ánh chính xác tình trạng dân số chung.

“Ngoài ra, do mã hóa khác nhau giữa ba nghiên cứu, chúng tôi không thể phân biệt các loại vaccine được tiêm. Các nhà nghiên cứu viết rằng điều này làm giới hạn phân tích số lần chích ngừa khi trẻ được một tuổi, đồng thời cho biết thêm rằng “cần phải nghiên cứu thêm để hiểu được toàn bộ các tác động sức khỏe liên quan đến việc chích ngừa ở trẻ em”.

Xác định rủi ro

Các chiến dịch vaccine trước đây (đặc biệt là bệnh bại liệt) được ghi nhận vì sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng. Nhưng ngay cả những người ủng hộ vaccine tận tâm nhất cũng thừa nhận rằng niềm tin của họ đang giảm xuống. Vào tháng 12/2019, tại hội nghị thượng đỉnh của Tổ chức Y tế Thế giới về vaccine, các chuyên gia đã nhấn mạnh việc thiếu “khoa học” và việc các thử nghiệm lâm sàng vaccine không có khả năng cung cấp thông tin có ý nghĩa về an toàn và rủi ro.

Tuy nhiên, vẫn còn một số cuộc điều tra mà các cơ quan quản lý từ lâu đã không muốn khai triển. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2008 với CBS News, Tiến sĩ Bernadine Healy, cựu Giám đốc Viện Y tế Quốc gia, giải thích rằng các cơ quan quản lý đã loại bỏ những quan ngại quá nhanh mà không thực sự nghiên cứu trên dân số của họ.

Tiến sĩ Healy nói, “Lý do họ không muốn xem xét nhóm nhạy cảm này là vì nếu họ tìm thấy, bất kể là lớn hay nhỏ, điều đó sẽ khiến công chúng sợ hãi.”

Tiến sĩ Healy, qua đời năm 2011, vẫn là người ủng hộ mạnh mẽ vaccine. Bà tin rằng công chúng cũng sẽ như vậy, đặc biệt là khi các phương pháp an toàn hơn có thể được tìm ra.

Tiến sĩ Healy nói, “Nếu chúng ta xác định được nhóm nhạy cảm, xác định được yếu tố nguy cơ đối với vaccine hoặc nếu chúng ta phát hiện ra rằng những việc này nên được công bố trong một thời gian dài, tôi nghĩ rằng công chúng sẽ không mất niềm tin vào vaccine. Tôi nghĩ công chúng sẽ tôn trọng điều đó.”

Conan Milner
Thu Ngân biên dịch

Xem thêm:

Chia sẻ bài viết này tới bạn bè của bạn